Danh nhân Y học phương Tây

  • 364 lượt xem
  • Bài viết cuối 14/11/2015
admin đã gửi 14/11/2015 - Sửa lần cuối 14/11/2015

Hypocrate 

Thầy thuốc Hy Lạp, được thừa nhận là ông tổ của ngành y. Người ta cho rằng ông sinh ra ở đảo Cos, một hòn đảo nằm ven bờ biển Tiểu á, gần Rhodes. Ông đã học nghề y từ người cha, vốn là một thầy thuốc. Ông đã từng đi một số nơi, có lẽ là Athen, để nghiên cứu, và sau đó ông trở lại đảo Cos để hành nghề, giảng dạy và viết sách. Trường phái Hypocrates, hay trường phái Cos hình thành xung quanh ông đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tách y học ra khỏi những suy luận mê tín và triết học, đưa y học thành phạm trù khoa học chính xác dựa trên quan sát khách quan và lập luận suy diễn chặt chẽ. Lời thề qui định chi tiết quyền được giữ bí mật của bệnh nhân, yêu cầu người thầy thuốc phải có cuộc sống riêng tư và nghề nghiệp đáng kính trọng, và đòi hỏi họ điều trị chỉ với mục đích chữa khỏi bệnh

Mặc dù Hypocrates theo quan niệm thời bấy giờ cho rằng bệnh tật là hậu quả của sự mất cân bằng của bốn loại thể dịch, ông kiên trì quan điểm rằng sự rối loạn chịu ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài cơ thể, và thể dịch là chất tiết ra từ các tuyến. Ông tin rằng mục đích của y học là bồi đắp sức khỏe cho bệnh nhân thông qua chế độ ǎn hợp lý và các biện pháp vệ sinh, và chỉ nên sử dụng đến những biện pháp điều trị quyết liệt hơn khi các triệu chứng bắt buộc phải làm như vậy. Quan niệm này trái ngược với trường phái Cnidius cùng thời, nhấn mạnh đến việc chẩn đoán chi tiết và và phân loại bệnh mà bỏ qua bệnh nhân. Có lẽ Hypocrates đã có ý niệm mơ hồ về các yếu tố Mendel và bộ gen trong di truyền, vì ông không chỉ chú ý đến dấu hiệu của bệnh, mà còn đến các triệu chứng biểu hiện trong gia đình hoặc trong cộng đồng, thậm chí biểu hiện qua nhiều thế hệ kế tiếp nhau. 

Trong bộ sách đồ sộ gồm những tác phẩm viết bắt nguồn từ trường phái Cos, chỉ một số ít được cho là do chính Hipocrates viết ra, mặc dù người ta có thể cảm nhận được ảnh hưởng xuyên suốt của ông. Trong số này, cuốn Cách ngôn, tóm tắt những quan sát và suy luận của ông, cùng với cuốn Không khí, Nước và Nơi sống, thừa nhận mối liên quan giữa môi trường và bệnh tật, được xem là quan trọng hơn cả. Bộ sách này đã được dịch thành một số bản, trong đó nổi tiếng là bản dịch của Littré.

Mặc dù lời thề Hypocrates không trực tiếp mang lại danh tiếng cho ông, song, không nghi ngờ gì nữa, nó tiêu biểu cho những tư tưởng và nguyên tắc của ông. Vẫn chi phối việc thực hành y đức của các bác sỹ ngày nay, lời thề Hypocrates thường vang lên tại lễ tốt nghiệp của các trường y. Lời thề qui định chi tiết quyền được giữ bí mật của bệnh nhân, yêu cầu người thầy thuốc phải có cuộc sống riêng tư và nghề nghiệp đáng kính trọng, và đòi hỏi họ điều trị chỉ với mục đích chữa khỏi bệnh. 

---------------------------------------------------

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Mì tôm với trứng luôn sẵn sàng

Hai tay hai máy ta làm việc

Cuộc đời tát-ắp thế mà sang

admin đã gửi 14/11/2015

Lời thề HIPPOCRATE

Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Esculape thần y học, trước thần Hygie và Panacée, và trước sự chứng giám của tất cả các nam nữ thiên thần, là tôi sẽ đem hết sức lực và khả nǎng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây:

  • Tôi sẽ coi các thầy học của tôi ngang hàng với các bậc thân sinh ra tôi.
  • Tôi sẽ chia sẻ với các vị đó của cải của tôi, và khi cần tôi sẽ đáp ứng những nhu cầu của các vị đó.
  • Tôi sẽ coi con của thầy như anh em ruột thịt của tôi, và nếu họ muộn học nghề y thì tôi sẽ dạy cho họ không lấy tiền công mà cũng không giấu nghề.
  • Tôi sẽ truyền đạt cho họ những nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả vốn hiểu biết của tôi cho các con tôi, các con của các thầy dạy tôi và cho tất cả các môn đệ cùng gắn bó bời một lời cam kết và một lời thề đúng với.
  • Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tùy theo khả nǎng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công.
  • Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết.
  • Tôi sẽ không thực hiện những phẫu thuật mở bàng quang mà dành công việc đó cho những người chuyên.
  • Dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự do hay nô lệ.
  • Dù tôi có nhìn hoặc nghe thấy gì trong xã hội, trong và cả ngoài lúc hành nghề của tôi, tôi sẽ xin im lặng trước những điều không bao giờ cần để lộ ra và coi sự kín đáo trong trường hợp đó như một nghĩa vụ.
  • Nếu tôi làm trọn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ được hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự qúy trọng mãi mãi của mọi người. Nếu tôi vi phạm lòi thề này hay tôi tự phản bội, thì tôi sẽ phải chịu một số phận khổ sở ngược lại !
  • Y luật mà không truyền cho một ai khác.Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ; cũng như vậy, tôi cũng sẽ không trao cho bất cứ người phụ nữ nào những thuốc gây sẩy thai.

---------------------------------------------------

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Mì tôm với trứng luôn sẵn sàng

Hai tay hai máy ta làm việc

Cuộc đời tát-ắp thế mà sang

admin đã gửi 14/11/2015

Luis Pasteur

 

LuisPasteur(1822-1895)Louis Pasteur sinh ngày 27/12/1882 ở Dole, một vùng của Jura, Pháp. Khám phá của ông cho rằng hầu hết các bệnh nhiễm trùng là do những mầm bệnh, mang tên "lý thuyết về mầm bệnh", là một trong những khám phá quan trọng nhất trong lịch sử y học. Sự nghiệp của ông trở thành nền móng cho ngành vi sinh, và là cột mốc đánh dấu bước ngoặt của y học hiện đại.

Tóm tắt những đóng góp to lớn của Pasteur cho vi sinh và y học: Thứ nhất, ông đấu tranh đòi thay đổi thực hành trong bệnh viện để giảm thiểu lây lan bệnh do vi khuẩn. Thứ hai, ông phát hiện ra rằng có thể dùng dạng vi khuẩn đã làm yếu để chủng ngừa chống lại dạng vi khuẩn độc. Thứ ba, Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân rất nhỏ không nhìn thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới các virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại và điều trị người bị chó dại cắn. Và thứ tư, Pasteur đã phát triển phương pháp "tiệt trùng kiểu Pasteur", một quy trình dùng sức nóng để tiêu diệt vi khuẩn có hại trong các loại thực phẩm dễ thiu thối mà không làm hỏng thực phẩm.

Sự nghiệp của Pasteur

Mỗi khám phá trong sự nghiệp của Pasteur đều là những mắt xích của một chuỗi không tách rời bắt đầu bằng tính bất đối xứng phân tử và kết thúc bằng phòng bệnh dại, theo con đường nghiên cứu trên men, tằm, bệnh của rượu và bia, vô trùng và vaccin.

Từ tinh thể học tới phân tử bất đối xứng

Nǎm 1847 ở tuổi 26, Pasteur tiến hành công trình đầu tiên về tính bất đối xứng phân tử, nêu lên cùng một lúc các nguyên lý của tinh thể học, hóa học và quang học. Ông đã đề ra định luật cơ bản: tính bất đối xứng phân chia thế giới hữu cơ với thế giới vô cơ. Nói một cách khác, các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới - ngành hóa học lập thể.

Nghiên cứu sự lên men và sự tự sinh

Theo yêu cầu của một nhà sản xuất rượu tên là Bigo ở miền bắc nước Pháp, Pasteur bắt đầu nghiên cứu xem tại sao rượu lại bị nhiễm những chất ngoài ý muốn trong quá trình lên men. Ông đã sớm chứng minh được rằng mỗi giai đoạn của quá trình lên men đều liên quan với sự tồn tại của một loại vi sinh vật đặc thù hay con men - một sinh vật mà người ta có thể nghiên cứu bằng cách nuôi cấy trong một môi trường vô trùng thích hợp. Nhận định sáng suốt này là cơ sở của ngành vi sinh.

Pasteur đã giáng một đòn quyết định vào thuyết tự sinh, học thuyết đã từng tồn tại trong 20 thế kỷ cho rằng cuộc sống có thể tự này sinh từ những chất liệu hữu cơ. Ông cũng phát triển lý thuyết mầm bệnh. Cùng thời gian này, ông khám phá ra sự tồn tại của sự sống trong điều kiện không có oxy: "Lên men là hậu quả của sự sống không có không khí". Khám phá về sự sống yếm khí đã mở ra con đường nghiên cứu những mầm bệnh gây nhiễm trùng huyết và bệnh hoại thư, cùng với nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Nhờ Pasteur, người ta có thể phát minh ra những kỹ thuật tiêu diệt vi khuẩn và kiểm soát ô nhiễm.Kỹ thuật "tiệt trùng kiểu Pasteur"

Hoàng đế Napoleon III đã đề nghị Pasteur nghiên cứu những bệnh ảnh hưởng đến rượu đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất rượu. Nǎm 1864, Pasteur tới khu vườn nho ở Arbois để nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chứng minh rằng bệnh của rượu là do vi sinh vật gây ra, những vi sinh vật này có thể bị tiêu diệt bằng cách đun nóng rượu đến nhiệt độ 55oC trong vài phút. áp dụng cho bia và sữa, cách xử lý này, được đặt tên là "tiệt trùng kiểu Pasteur" đã nhanh chóng thông dụng trên khắp thế giới.Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng ở người và động vật

Nǎm 1865, Pasteur bắt đầu nghiên cứu những bệnh của tằm đang làm lụn bại ngành tằm tơ ở Pháp. Ông đã tìm ra tác nhân gây bệnh và cách lan truyền những tác nhân này - theo qui luật lây và di truyền - và cách ngǎn ngừa bệnh. Bổ sung thêm nghiên cứu về sự lên men, giờ đây ông có thể khẳng định mỗi bệnh là do một vi khuẩn đặc trưng gây ra và những vi khuẩn này là những yếu tố ngoại lai. Với hiểu biết này, Pasteur có thể đặt ra những qui tắc cơ bản của tiệt trùng. Ngǎn ngừa được lây nhiễm, phương pháp tiệt trùng của ông đã cách mạng hóa ngành ngoại khoa và sản khoa.

Từ nǎm 1877-1887, Pasteur vận dụng cơ sở vi sinh học vào cuộc chiến chống các bệnh nhiễm trùng. Ông tiếp tục tìm ra ba vi khuẩn gây bệnh cho người: tụ cầu, liên cầu và phế cầu.

Điều trị và phòng ngừa bệnh dại

Louis Pasteur đã tìm ra phương pháp làm yếu các vi sinh vật độc là cơ sở cho chủng ngừa. Ông đã phát triển các vaccin chống bệnh tả ở gà, bệnh than và bệnh lợn đóng dấu. Sau khi nắm vững phương pháp chủng ngừa, ông đã áp dụng khái niệm này vào bệnh dại. Ngày 6/7/1885, lần đầu tiên Pasteur đã thử phương pháp điều trị bệnh dại của mình cho người: bé Joseph Meister đã được cứu sống.

Thành lập Viện Pasteur

Ngày 1/3/1886, Pasteur trình bày kết quả phương pháp điều trị bệnh dại của ông trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và kêu gọi thành lập một trung tâm vaccin dại. Đông đảo dân chúng và cộng đồng quốc tế đã vận động tài trợ cho việc xây dựng Viện Pasteur, một viện nghiên cứu tư đầu tiên được Tổng thống pháp Jules Gresvy công nhận nǎm 1887 và được người kế nhiệm ông là Sadi Carnot khánh thành nǎm 1888. Theo mong ước của Pasteur, Viện được xây dựng thành một cơ sở điều trị bệnh dại, một trung tâm nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng và một trung tâm giảng dạy.

Nhà khoa học 66 tuổi đã dành trọn 7 nǎm cuối cùng của cuộc đời cho Viện nghiên cứu vẫn mang tên ông. Trong thời gian này, Pasteur cũng được hưởng niềm vui của danh tiếng và được tôn vinh khắp thế giới bằng những huân huy chương có uy tín.

Sự nghiệp của ông được tiếp tục và được mở rộng trên kháp thế giới nhờ lớp lớp học trò.

Con người của tự do và nghiêm ngặt

Sự nghiệp của Pasteur không phải đơn giản là phép cộng những khám phá của ông. Nó còn tiêu biểu cho cuộc cách mạng phương pháp luận khoa học. Pasteur đặt lên trên hết hai nguyên tắc không thể bàn cãi của nghiên cứu hiện đại: tự do sáng tạo nhất thiết phải đi với thử nghiệm nghiêm ngặt. Ông dạy các học trò của mình: "Đừng có đưa ra điều gì mà anh không thể chứng minh bằng thực nghiệm"

Louis Pasteur là người theo chủ nghĩa nhân vǎn, luôn luôn làm việc theo hướng cải thiện địa vị của con người. Ông là một người tự do chưa bao giờ ngập nừng khi nhận những vấn đề mà trong thời đại của ông người ta vẫn thường cho rằng chúng sẽ thất bại.

Ông đặc biệt coi trọng việc phổ biến kiến thức và ứng dụng nghiên cứu. Trong cuộc đời của một nhà khoa học, lý thuyết và phương pháp Pasteur đã được đưa vào thực tiễn vượt xa khỏi biên giời nưới Pháp.

Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng quốc tế của sự nghiệp ông, các học trò của Pasteur đã đi khắp thế giới tới bất cứ nơi nào cần đến sự giúp đỡ của họ. Nǎm 1881, Viện Pasteur ngoài nước Pháp đầu tiên được thành lập ở Sài gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam), mở đầu cho mạng lưới các Viện Pasteur quốc tế.

Vì ông đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới, tổ quốc quê hương ông và cả thế giới luôn coi ông là một ân nhân của nhân loại.

Sự tiến bộ của nhân loại

"Tôi cầu khẩn các bạn dành sự quan tâm cho những lãnh địa thiêng liêng rất nhạy cảm có tên là các phòng thí nghiệm. Mong sao những lãnh địa này sẽ nhiều hơn và chúng sẽ được tô điểm để trở thành những ngôi đền của tương lai, của thịnh vượng và sức khỏe. Đây là nơi nhân loại sẽ lớn lên, vững mạnh và hoàn thiện. ở đây, loài người sẽ học cách đọc được sự phát triển và sự hài hòa cá nhân trong những công việc của tự nhiên, trong khi công việc của chính loài người lại thường man rợ, cuồng tín và phá hoại" - Louis Pasteur

---------------------------------------------------

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Mì tôm với trứng luôn sẵn sàng

Hai tay hai máy ta làm việc

Cuộc đời tát-ắp thế mà sang

admin đã gửi 14/11/2015

Alexandre Yersin

 

Cuộc đời ...

AlexandreYersin(1863-1943)Alexandre Yersin, tên đầy đủ Alexandre-émile-John Yersin, còn được gọi là Alexandre-John-émile Yersin, sinh nǎm 1863 ở Vaud - Morges, Thụy Sỹ. Nǎm 1882 ông nhận bằng tú tài vǎn khoa, và nǎm 1988, sau khi tốt nghiệp trường y Paris, ông đã chính thức nhập quốc tịch Pháp. Cũng trong thời gian này, ông tham gia vào nhóm nghiên cứu của bác sỹ Luis Pasteur. Sau đó, bác sỹ Yersin trở nên nổi tiếng qua nhiều công trình tiên phong do nhóm nghiên cứu của Pasteur tiến hành. Niềm say mê du lịch đã đưa ông tới Việt Nam.

Tháng 7/1891, khi tới thám hiểm những cao nguyên ở Việt Nam, ông đã phát hiện ra Đà Lạt, và sau đó là nhiều nguồn nước ở khu vực này. Ông cũng nổi tiếng vì đã khám phá ra nhiều bí ẩn của vùng cao nguyên phía tây Việt Nam.

Mặc dù Yersin yêu Đà Lạt, ngôi nhà của ông lại nằm ở Nha Trang. Tại Nha Trang, Yersin đã xây dựng nên Viện Pasteur, mang tên người thầy của ông. Bác sỹ Yersin cũng có một nông trại ở Nha Trang. Ông nuôi ngựa để tiến hành nghiên cứu về miễn dịch. Ông cũng có đóng góp to lớn cho ngành cao su Việt Nam, vì chính ông là người đưa cây cao su Braxin vào Việt Nam. Alexandre Yersin cũng là người gây dựng những đồn điền canh ki na đầu tiên ở Việt nam, từ đây người ta sản xuất ra quinin.

Bác sỹ Yersin sống giản dị ở Nha Trang. Ông được người dân địa phương yêu mến vì đức khiêm tốn và sự chǎm sóc mà ông dành cho mọi người. Ông mua một khu dán trại bỏ hoang và sơn nó thành màu trắng. Đây vừa là nhà vừa là phòng thí nghiệm của ông. Dân địa phương thân mật gọi ngôi nhà của ông là Lầu Ông Nǎm hay Tháp Ngà.

Nǎm 1940, sức khỏe đã giảm sút, Alexander Yersin về Pháp lần cuối. Nǎm 1941, ông trở lại ngôi nhà thân thương ở Nha Trang, ở đây ông đã sống những ngày còn lại và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3/1/1943, thọ 80 tuổi. Trong di chúc, ông yêu cầu được chôn cất tại Nha Trang, gần gũi những người mà ông yêu mến. Vì kính trọng và biết ơn những đóng góp của ông cho mảnh đất này, hằng nǎm vẫn có nhiều người tới thǎm viếng ngôi mộ của ông ở Nha Trang

... và sự nghiệp

Alexander Yersin là một trong những người đã tìm ra vi khuẩn dịch hạch Pasteurella pestis, nay được gọi là Yersinia pestis. Yersin đã nghiên cứu y học tại trường đại học Marburg và Paris, và nghiên cứu vi khuẩn học cùng với Esmile Roux ở Paris và Robert Koch ở Berlin. Nǎm 1888 ông và Roux dã phân lập được độc tố của vi khuẩn bạch hầu và chứng minh rằng chính độc tố - chứ không phải vi khuẩn - làm tǎng triệu chứng của bệnh. Nǎm 1890 Yersin rời châu Âu để làm một thầy thuốc trên tàu thuỷ hoạt động ở vùng bờ biển Đông Dương, ngay sau đó ông bắt đầu chuyến thám hiểm kéo dài bốn nǎm ở miền trung. Ông đã tìm ra thượng nguồn sông Đồng Nai và khám phá cao nguyên Lâm Viên, nơi ông đề nghị xây dựng một thành phố, và đó chính là Đà Lạt ngày nay. Nǎm 1892 ông vào làm ở Sở y tế thuộc địa và nǎm 1894 được cử sang Hong Kong, tại đây ông và Kitasato Shibasaburo đã độc lập tìm ra vi khuẩn bạch hầu trong khi nghiên cứu dịch bạch hầu ở Trung Quốc.

Nǎm tiếp theo Yersin thiết lập một phòng thí nghiệm tại Nha Trang. ở đây ông điều chế huyết thanh chống bệnh bạch hầu cho người khỏe và gia súc, nghiên cứu nhiều bệnh gia súc, uốn ván, tả và đậu mùa. Để có tiền cho phòng thí nghiệm, mà nǎm 1903 được đặt tên là Viện Pasteur Nha Trang, ông đã tiến hành trồng ngô, lúa, cà phê và đưa cây cao su (Hevea brasiliensis) vào Đông Dương. Nǎm 1903-1904 ông sáng lập trường y ở Hà Nội nhưng lại quay về sống ở Nha Trang. Nǎm 1920-1923 ông đưa đến đây cây Cinchona ledgeriana, một nguồn quinin. Nǎm 1933 ông được phong làm giám đốc danh dự của Viện Pasteur ở Paris.

---------------------------------------------------

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Mì tôm với trứng luôn sẵn sàng

Hai tay hai máy ta làm việc

Cuộc đời tát-ắp thế mà sang

Bạn muốn gửi trả lời ? Hãy đăng nhập trước. Nếu chưa có tài khoản vào diễn đàn, hãy đăng ký
 

Chủ đề cùng danh mục

Chọn ngày  
Tháng Chín 2023 September
22
Thứ Sáu
 
Năm Quý Mão
Tháng Tân Dậu
Ngày Quý Mùi
Giờ Nhâm Tí
8
Tháng Tám (ÂL, Đ)
Friday
Ngày Bảo Quang hoàng đạo
Ngũ hành nạp âm Dương Liễu Mộc (Gỗ cây liễu)
Trực Thành
Nhị thập bát tú Sao Cang
Tuổi xung Đinh Sửu, Tân Sửu

Danh sách sao:
Sinh Khí Tốt mọi việc, tốt nhất là đối với việc làm nhà, sửa nhà, động thổ, trồng cây
Địa Tài Tốt cho cầu tài lộc, khai trương
Nguyệt Ân Tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương
Tốc Hỷ Tốt chung
Đại Hồng Sa Tốt chung
Âm Đức Tốt chung
Nhân Cách Xấu với giá thú, khởi tạo
Tứ Thời Cô Quả Kỵ giá thú
Địa Phá Kỵ xây dựng
Hoang Vu Xấu mọi việc

Giờ hoàng đạo:
Mão(5-7h), Tị(9-11h), Tuất(19-21h), Hợi(21-23h)
Giờ hắc đạo:
Sửu(1-3h), Thìn(7-9h), Mùi(13-15h), Dậu(17-19h)
Tiết khí:
Giữa Bạch lộ (nắng nhạt) và Thu phân (giữa thu)
Lưu ý sức khỏe:
Sau tiết Bạch Lộ khí âm rất thịnh nên cần đề phòng bệnh tật, các chứng cảm nhiễm, phong hàn…. Tháng 08 âm lịch là tháng Dậu, tại tháng này khí Kim cực vượng nên những người sinh tháng này khí chất cứng cỏi, kiên cường, quả quyết, dứt khoát, tín nghĩa, thông minh, đoan chính... nhiều người có dung mạo tú lệ, khôi vỹ, tuấn tú. Đối với những người có đặc điểm mệnh lý cần Kim khí thì trong tháng này họ sẽ ổn định về sức khỏe, tâm lý, trí tuệ thông thái, mẫn tiệp. Những người kỵ hành Kim thì sức khỏe suy yếu, dễ mắc các bệnh về hô hấp, khớp xương, tâm lý của họ cảm thấy cô độc, không hợp người thân, công việc trì trệ.
Lưu ý: Ngày/giờ/sao tốt xấu được đưa ra theo kinh nghiệm của người xưa, chỉ có ý nghĩa tham khảo. Hãy căn cứ chủ yếu vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để đưa ra các quyết định!
HÀ NỘI
 
TP HỒ CHÍ MINH
Nguồn: weatherzone.com.au
  • Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index - BMI) - được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của một người.
  • Chỉ số khối cơ thể của một người tính bằng cân nặng của người đó (kg) chia cho bình phương chiều cao (mét).
  • Theo WHO, người lớn có BMI trong phạm vi [18.50 - 24.99] là người bình thường. Dưới 18.5 là gầy, trên 25 là người béo và trên 30 là béo phì.
TỶ GIÁ
Cập nhật: 01/01/0001 12:00:00 SA
Nguồn:
Ngoại tệ Mua Mua CK Bán
 
GIÁ VÀNG MIẾNG SJC 9999
Cập nhật:
Nguồn:
Tỉnh/TP Mua Bán